Trong lịch sử y học Việt Nam, có lẽ ít người gây được những ảnh hưởng to lớn và sâu rộng đến các thế hệ mai sau như Hải Thượng Lãn ông Lê Hữu Trác. Với thiên tài kiệt xuất, khả năng lao động phi thường và lòng yêu thương con người tha thiết, ông đã cống hiến cho nền y học dân tộc những tác phẩm vô giá, những viên ngọc lấp lánh trong kho tàng văn học Việt Nam.
Sinh ra và lớn lên trong một gia đình dòng dõi khoa bảng, Lê Hữu Trác là con thứ bảy của tiến sĩ Lê Hữu Mưu, cháu ruột của tiến sĩ Lê Hữu Kiều (bố vợ nhà bác học Lê Quý Đôn), ngay từ thời thơ ấu, cậu đã rất thông minh và hiếu học. Lớn lên, theo con đường sự nghiệp của ông cha, Lê Hữu Trác cùng đỗ đạt và làm quan, nhưng bả vinh hoa không làm ông loá mắt, như lời ông vẫn thường tâm sự.
Lợi danh trước mắt trôi nước
Nhân nghĩa trong lòng chẳng đổi phương.
Chẳng bao lâu, Lê Hứu Trác cáo quan, về ở ẩn nơi quê mẹ vầ lấy tên hiệu là Hải Thượng Lãn Ông, nghĩa là ông già lười ở xứ Hải Đương (quê cha) và Bầu Thượng (quê mẹ), dựng nhà ở Hương Sơn (Hà Tĩnh) để hưởng thú điền viên phụng dưỡng mẹ già và trị bệnh giúp đời:
Cung đàn chén rượu vẫn ưa vui
Lo lắng cho người dạ chẳng nguôi.
Trong suốt cuộc đời làm thuốc, Lãn Ông luôn luôn tâm niệm: Nghề làm thuốc là nhân thuật, thầy thuốc hẳn phải lấy việc giúp người làm điều hay.:, lúc tuổi trẻ, tôi đã phái bó nghiệp nho theo nghề y hơn 10 năm đèn sách nghiên cửu đêm ngày trau dồi nghề nghiệp trong ỉờng, chí luôn luôn nghĩ đến việc cứu giúp ngirời đời…
Một hôm, người dân chài tên là Thuộc có con gái 13 tuổi mắc bệnh đậu mùa đến xin ông cứu chữa. Giữa trưa hè nóng bức, trên bến sông hoang vắng, em bé nằm trong con đò nát, gối mình trong cát bỏng, mùi tanh thối nồng nặc xông lên. Mỗi lần tới thăm bệnh, Lãn Ông phải khom người chui xuống lòng thuyền chật chội, cố nén cơn buồn nôn, tay luôn luôn gạt những giọt mồ hôi đầm đìa trên trán. Ác chứng của cơn bệnh hiểm nghèo đã có lúc khiến cho ông nản lòng. Trong một cơn nóng giận đột ngột kéo đến, Lãn Ông đã nói thẳng vói gia đình bệnh nhân:
Chứng đậu rất nguy hiểm, tôi không chữa được đâu. Hay bác nên đi tìm thầy thuốc khác …
Nhưng ngay đêm hôm ấy, trước sự đau khổ và lòng thành tâm của hai vợ chồng bác thuyền chài, trái tim nhân đạo của vị y sư đã xúc động mãnh liệt. Thế là ông lại vượt lên gian khó, lao vào cuộc chiến đấu mới ác liệt với tử thần và sau đúng 1 tháng 4 ngày, cháu bé đã hoàn toàn khỏi bệnh. Chẳng những ông không lấy tiền thuốc men, lễ tạ mà còn giúp đỡ cả gạo, củi, dầu, đèn cho gia đình bệnh nhân, đúng như cái khí tiết một đời trong sạch của ông:
Phải đâu vất vả mong ơn huệ
Trong đáy lòng ta cốt cứu người.
Đây phải chăng là một trong những câu chuyện cảm động nhất về mối quan hệ giữa thầy thuốc và bệnh nhân, xứng đáng là một tấm gương sáng ngời về y đức học cho tất cả các thầy thuốc của nhiều thế hệ noi theo.
Vào những năm 1750 - 1760, tiếng tăm của Lãn Ông được lan truyền khắp đất nước. Kẻ giàu sang, người nghèo hèn từ những xóm vắng, làng xa đến cung vua, phủ chúa, hễ ai có bệnh"thập tử nhất sinh"đều tìm đến mái nhà tranh thôn dã của ông để xin chữa chạy. Năm 1782, chúa Trịnh Sâm lâm bệnh nặng. Ngưỡng mộ tài năng của vị y sư đã bạc trắng mái đầu, phủ chúa cho vời ông lên kinh đô để thăm bệnh. Trong thời gian ở kinh kỳ, Lãn Ông đã chữa khỏi cho nhiều vương tôn công tử chốn triều đình và bệnh tình của chúa Trịnh cũng dần dần thuyên giảm. Ông được chúa Trịnh rất trọng dụng và giữ lại ở trong phủ để thường trực thuốc thang cho nhà chúa. Vị y sư lập tức tạ sự thoái thác. Dưới con mắt ông, ân huệ đó chỉ làm cản trở "công việc" hằng ngày:
Thưa, tôi có bệnh yếu dạ, ở đây không tiện việc đi đồng, xin cho tôi ra ở bên ngoài…
Rồi khi có điều kiện thuận lợi, ông nằng nặc đòi Huy quận công Hoàng Đình Bảo cho trở về Hương Sơn.Về tới quê nhà, ông lại sống cuộc đời thanh bạch của mình trong tình thương yêu của bà con thôn xóm. Và, tối đến bên be rượu, ấm trà bát ngát hương trời và mát dịu ánh trăng, những dòng thơ kỳ thú lại vang ngân:
Ngày ngày xem bệnh vừa xong
Đêm đêm tựa bóng trăng trong gẩy đàn
Vừng đông cao vẫn ngủ tràn
Bởi lòng tơ tưởng chữ nhàn mà say.
Nhưng Lãn Ông đâu có nhàn mà cũng chẳng lười như ông thường nhận. Có chăng ông chỉ lười ở chốn quan trường và say mê thú an nhàn nơi thôn dã. Cả cuộc đời ông là một tấm gương lao động cần cù, tận tâm. Vào buổi hoàng hôn của đời mình, Lãn Ông đã chuyên tâm hoàn thành bộ Y tông tâm lĩnh gồm 28 tập, 66 quyển mà ông đã thai nghén gần 30 năm trước đó. Đêm đêm, ông làm việc cặm cụi trong thư phòng, dưới ánh đèn khuya, giữa những đống tài liệu và cây thuốc, tắm mình trong những suy tưởng thật cao quý, thiêng liêng...
Mùa đông năm Canh Tuất (1790). Lãn Ông đã tới tuổi 70. Ở vào độ tuổi “xưa nay hiếm” ông bắt đầu cảm thấy sức khoẻ giảm sút. Không dám xông xáo đi chữa bệnh ở nhiều nơi như trước, ông chỉ khám và chữa bệnh tại nhà. Ngoài giờ làm việc ông thường cùng bạn hữu vui thú đàn nhạc thưởng nguyệt, ngâm thơ và tranh thủ biên soạn y văn, lòng còn ôm ấp hoài bão đem những kinh nghiệm quý báu của mình truyền lại cho thế hệ mai sau. Nhưng cái rét ghê gớm của mùa đông năm ấy đã ngăn cản những dự định tốt đẹp của ông.
Cảm nhận được sự lão hóa đang hằng ngày, hằng giờ thâm nhập vào trí não và cơ thể mình, Lãn Ông cố chống lại, ông thực hiện chê độ ăn uống, làm việc, nghỉ ngơi hết sức điều độ và chăm chỉ luyện tập dưỡng sinh. Nhưng "sinh, lão, bệnh,tử" vẫn là quy luật của muôn đời, không ngoại trừ ai, dù là một bậc đại y tôn.
Một buổi chiều cuối mùa đông mưa phùn. Gió bấc từng cơn rít qua khe cửa, lùa vào đình Tối Quảng, noi Lãn Ông ngồi đọc sách. Ông vội đứng dậy đi vào nhà, cảm thấy trong người khó chịu, ho giật từng hồi, khạc ra đờm đặc …
Tuy vậy, buổi tối, bên ngọn đèn dầu trong thư phòng, người dân ở Bầu Thượng vẫn thấy một ông già có chòm râu thưa dài và mái tóc bạc để xoã đến vai như một ông tiên đang ngồi cặm cụi ghi chép. Hình như làm việc đã là một thói quen, một nhu cầu không thể thiếu trong cuộc đời của ông già tự xưng là Ông Già Lười này.
Nhưng đến một sáng đầu xuân, ngày 12 tháng giêng năm Tân Hợi (1791), thì thói quen đó vĩnh viễn không bao giờ còn thực hiện được nữa. Sau mấy ngày vui cái tết cuối cùng của cuộc đời mình, với kiến thức y học uyên bác, Lãn Ông linh cảm thấy sự chẳng lành đang đến với mình. Ông lên giường nằm, nhắm mắt nhưng không sao ngủ được, niềm đau nhân thế vẫn canh cánh bên lòng.
Con cháu mang đến cho ông bát cháo gà, nhưng ông gạt đi và bảo lấy hộ chén thuốc bổ do ông tự kê đơn. Uống xong ông cảm thấy dễ chịu hơn chút ít. Suốt mấy ngày sau, bà con làng xóm và học trò thân thuộc nâng niu chăm sóc bên giường bệnh của ông, mong kéo dài thêm cuộc sống cho một con người mà cả cuộc đời đã cứu biết bao nhiêu người khác. Nhưng tất cả dường như đã muộn...
Đúng sáng hôm rằm tháng giêng, khi vợ con trong nhà đang làm lễ cúng gia tiên, thì Lãn Ông thiếp đi, không còn hay biết gì nữa. Mọi người đổ sâm cho ông, ông chỉ mở mắt nhìn khắp nhà mà chẳng nói được lời nào.
Mấy người con ông quỳ xuống cạnh giường, nước mắt giàn giụa, nói trong tiếng nức nở, nghẹn ngào:
Thầy ơi! Thầy có căn dặn chúng con điều gì nữa không?
Lãn Ông chỉ mấp máy môi:
Thầy., .thầy., .cầu mong., .cho các con và mọi người... được mạnh khoẻ... và đời đời... hạnh phúc...
Rồi ông từ biệt cõi đời này trên quê mẹ, thôn Bầu Thượng, xã Tình Diệm, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh trong niềm thương xót và biết ơn vô hạn của gia đình và bà con làng xóm. Ánh nắng dịu nhẹ của một buổi sáng đầu xuân chiếu vào phòng dát vàng lên khuôn mặt hiền từ, nhân hậu của ông...
Đã hơn hai trăm năm trôi qua kể từ ngày Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác qua đời, đất nước Việt Nam đã trải qua bao thăng trầm và nền y học Việt Nam đã có những bước phát triển vô cùng mạnh mẽ, nhưng lịch sử Việt Nam sẽ mãi mãi không bao giờ có thể quên công lao to lớn của ông đối với sự phát triển của y học nưóc nhà.
Hải Thượng Lãn Ông là sự kết tinh truyền thống vẻ vang của nền văn hoá Việt Nam. Bộ sách Hải thượng y tông tâm lĩnh gồm 28 tập, 66 quyển, do ông biên soạn trong 30 năm trời, là cả một kho tàng kinh nghiệm vô cùng quý báu cho tất cả những người làm công tác y tế ngày nay.
Bài học mà Lãn Ỏng truyền lại cho đời sau là vô cùng phong phú và sâu sắc. Đó là những bài học về lý tưởng tiến bộ và hoài bão tốt đẹp, về tình yêu nghề nghiệp tha thiết, về tinh thần phục vụ bệnh nhân vô điều kiện, về thái độ thận trọng và khiêm tốn, về quan hệ đồng nghiệp cao cả và về một quan niệm đạo đức y học trong sáng, cao thượng..:
Nhớ đến Lãn Ông chúng ta nhớ đến một người thầy thuốc, một vị y sư tài cao, đức rộng, am hiểu y học một cách toàn diện, biết coi trọng vệ sinh, phòng bệnh, có tấm lòng nhân đạo, vị tha cao cả, có tinh thẩn xả thân vì sự nghiệp trị bệnh cứu người, không bị cám dỗ bởi phú quý, vinh hoa.
Nhớ đến Lãn Ồng, chúng ta nhớ đến một nhà thơ, một người nghệ sĩ tài hoa với những lời thơ giản dị, thanh tao, đậm đà hương vị núi rừng, chứa chan tình cảm yêu đời, yêu lao động, xa lánh mọi thứ ồn ào, giả tạo, hào nhoáng, hư danh.
Nhớ đến Lãn Ống, chúng ta nhớ đến một con người triết lý, một nhà tư tưởng đức độ uyên thâm, giữa những vẩn đục của cõi đời, vẫn tìm thấy cho mình sự trong suốt của tâm hồn và trí tuệ, sống trọn một cuộc đòi cao đẹp cùng với một sự nghiệp chói lọi, huy hoàng.
Chính vì vậy, mặc dù đa qua đời hơn hai trăm năm nay nhưng tên tuổi và sự nghiệp, tâm hồn và trí tuệ của Hải Thượng Lãn Ông vẫn còn mãi mãi sống trong lòng những người thầy thuốc và nhân dân Việt Nam, tài năng và đức độ của ông vẫn như một ngôi sao sáng, lấp lánh giữa bầu trời y học Việt Nam. Đúng như lời nhận định của cố Giáo sư Hồ Đắc Di, nguyên Hiệu trưởng Trường Đại học y Hà Nội: Hải Thượng Lãn Ông là một thiên tài kiệt xuất của nền y học Việt Nam
Như vậy Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác sẽ còn sống mãi với non sông trường cửu.
Nguồn: Tài danh y học Việt Nam và Thế Giới
Share: